Cách đây 73 năm, Cách mạng tháng Tám thành công đã dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây được coi là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, Chính phủ cách mạng lâm thời ngay sau khi ra đời đã có những quyết sách kịp thời, đúng đắn, tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước sau này.
Thực hiện 3 nhiệm vụ cấp bách
Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập ngày 28-8 - 1945 trên cơ sở cải tổ Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Quốc dân Ðại hội Tân Trào thành lập ngày 16 và 17-8-1945. Ðiều đặc biệt là trong tổng số 15 thành viên Chính phủ được công bố, ngoài các thành viên thuộc Ðảng Cộng sản Ðông Dương là: Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Trần Huy Liệu, Phạm Ngọc Thạch, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Ðồng, Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân còn có 2 thành viên thuộc Ðảng Dân chủ là Dương Ðức Hiền, Bộ trưởng Bộ Thanh niên và Vũ Ðình Hòe, Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục. Có 4 thành viên Chính phủ không thuộc đảng phái nào là các ông: Nguyễn Mạnh Hà, Bộ trưởng Bộ Quốc dân kinh tế; Vũ Trọng Khánh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Ðào Trọng Kim, Bộ trưởng Bộ Giao thông công chánh và Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội.
Các thành viên Chính phủ lâm thời sau phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng toàn dân xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Ngày 3-9-1945, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ lâm thời đã họp phiên đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa và đề ra nhiều chính sách đặc biệt quan trọng, trong đó có 3 nhiệm vụ cấp bách là: Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong phiên họp đầu tiên, Chính phủ đã thống nhất với đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về 6 nội dung cấp bách phải thực hiện, đó là: Phát động tăng gia sản xuất, mở các cuộc lạc quyên để chống nạn đói; mở phong trào chống nạn mù chữ; tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ các tệ nạn do chế độ thực dân để lại; xóa bỏ các thứ thuế vô lý, trước mắt là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết. Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.
Ngoài ra, để khắc phục nạn đói khủng khiếp trước đó do thực dân Pháp và Phát xít Nhật gây ra làm 2 triệu đồng bào miền Bắc chết đói, Chính phủ đã tổ chức lễ phát động phong trào cứu đói, phái một ủy ban vào Nam bộ tổ chức vận chuyển gạo ra Bắc, kêu gọi các hội buôn và người dân tham gia vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc. Ðể giải quyết nạn đói, ngoài thực hiện nhiệm vụ cấp bách là cứu đói, Chính phủ kêu gọi nhân dân tăng gia sản xuất. Kết quả là chỉ trong 5 tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946, sản lượng lương thực, chủ yếu là hoa màu đạt tương đương 506.000 tấn lúa, đủ đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Ðến hết năm 1946, nạn đói đã cơ bản được giải quyết. Ðúng một năm sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 2-9-1946, Chủ tịch quân sự Võ Nguyên Giáp tuyên bố “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ”. Nếu như năm 1945, trên 95% dân số Việt Nam mù chữ thì đến cuối năm 1946, riêng ở Bắc bộ và Trung bộ đã có trên 2,5 triệu người biết đọc, biết viết…
Trong 6 vấn đề cấp bách được nêu ra có vấn đề “Tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Một tháng sau kể từ ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong bài “Chính phủ là công bộc của dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu cầu tự do hạnh phúc cho mọi người… đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”.
Chỉ hơn một tháng sau khi thành lập chính quyền cách mạng, trong thư gửi ủy ban nhân dân các cấp, Người đã thẳng thắn chỉ ra những lỗi lầm của đội ngũ cán bộ ủy ban các cấp hay mắc phải như: cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo và chỉ rõ những biểu hiện cụ thể của từng lỗi lầm đó. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện như: “ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.
Tiền đề quan trọng
Chính phủ lâm thời được cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam vào ngày 1-1-1946 với Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch Nguyễn Hải Thần (Việt Cách), Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp (Việt Minh), Bộ trưởng Quốc phòng Chu Văn Tấn (Việt Minh), Bộ trưởng Tuyên truyền cổ động Trần Huy Liệu (Việt Minh), Bộ trưởng Thanh niên Dương Ðức Hiền (Dân chủ), Bộ trưởng Quốc dân kinh tế Nguyễn Mạnh Hà (nhân sĩ trí Công giáo), Bộ trưởng Quốc gia giáo dục Vũ Ðình Hòe (Dân chủ), Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng Khánh (Dân chủ), Bộ trưởng Y tế Trương Ðình Tri (Việt Cách), Bộ trưởng Giao thông công chính Ðào Trọng Kim (nhân sĩ yêu nước), Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến (Việt Minh), Bộ trưởng Tài chính Phạm Văn Ðồng (Việt Minh), Bộ trưởng Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố (nhân sĩ yêu nước không đảng phái), Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận (Dân chủ), Bộ trưởng Không bộ Nguyễn Văn Xuân.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Liên hiệp Lâm thời, Việt Nam đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa I. Tư tưởng quản lý đất nước, xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, quan tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Từ năm 1919, trong yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Versailles, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải cải cách pháp luật ở Ðông Dương để người bản xứ được bảo đảm về luật pháp như người châu Âu. Người nhấn mạnh “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Chỉ một ngày sau lễ tuyên bố độc lập, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Cuộc Tổng tuyển cử đã được toàn dân tham gia rộng rãi, có địa phương đến 90% tổng số cử tri đi bỏ phiếu. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái dân chủ khác nhau, 43% đại biểu không đảng phái (87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu các dân tộc ít người).
Ngay sau cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, Chính phủ đầu tiên do cử tri toàn quốc bầu ra đã được thành lập ngày 2-3-1946. Quốc hội khóa I đã ban hành Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Trên cương vị là nguyên thủ quốc gia đồng thời là người đứng đầu Chính phủ và trực tiếp là Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy trí tuệ của Ðảng, toàn dân cùng với Quốc hội khóa I soạn thảo bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước nhà với những điểm tiến bộ vượt thời đại và vẫn còn nguyên giá trị đến hôm nay...
Có thể nói, những chính sách lớn của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sau khi giành được chính quyền đã mang đầy đủ ý nghĩa xây dựng một xã hội mới. Nhân dân được hưởng các quyền tự do dân chủ, các quyền về kinh tế và xã hội, văn hóa, giáo dục. Các chế độ bóc lột, độc đoán của chế độ cũ bị xóa bỏ. Ðây là tiền đề quan trọng để kháng chiến kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn độc lập - vẹn nguyên giá trị lịch sử
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng vạn đồng bào, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào về nền độc lập của dân tộc Việt Nam.
73 năm trôi qua nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc và sự thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
P.V
Tác giả: P.V
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập