Vĩnh biệt cây đại thụ của ngành Sử học Việt Nam

Thứ hai - 25/06/2018 00:29
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  

Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê vừa qua đời vào trưa 23-6, để lại một khoảng trống cho ngành Sử học Việt Nam và là nỗi mất mát khó bù đắp với những người làm sử, yêu sử và với biết bao thế hệ học trò. Tên tuổi, tài năng và nhân cách của ông đã trở thành huyền thoại, niềm kiêu hãnh và tấm gương sáng cho các thế hệ học trò và đồng nghiệp trong nước và quốc tế.​

Giáo sư Phan Huy Lê là một trong những nhà nghiên cứu lịch sử xuất sắc của Việt Nam, có uy tín cao trên trường quốc tế. Ông cũng là một trong “tứ trụ” của sử học Việt Nam “Lâm, Lê, Tấn, Vượng” (GS. Ðinh Xuân Lâm, GS. Phan Huy Lê, GS. Hà Văn Tấn và GS. Trần Quốc Vượng).

Nhà nghiên cứu lịch sử xuất sắc

GS. Phan Huy Lê sinh ngày 23-2-1934 tại làng Thu Hoạch, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh - một vùng quê văn hiến của xứ Nghệ, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, cần cù và hiếu học. Cả hai dòng họ nội, ngoại của GS. Phan Huy Lê đều là những dòng họ khoa bảng nổi tiếng với những danh nhân văn hoá lớn. Cụ thân sinh là Phan Huy Tùng, tiến sĩ Nho học, từng làm quan trong triều đình Huế, nổi tiếng thanh liêm, phúc đức.

Năm 1952, khi 18 tuổi, Phan Huy Lê rời gia đình ra học dự bị đại học ở Thanh Hóa và tại đây ông có cơ hội được tiếp xúc với những trí thức cách mạng hàng đầu của đất nước. GS. Trần Văn Giàu và GS. Ðào Duy Anh là những người đầu tiên nhận ra những phẩm chất ở Phan Huy Lê và hướng ông vào học Ban Sử - Ðịa, Trường đại học Sư phạm Hà Nội.


Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê.

Năm 1956, Phan Huy Lê vừa tốt nghiệp cử nhân Sử - Ðịa đã được nhận ngay vào Tổ Cổ sử thuộc Khoa Lịch sử dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của GS. Ðào Duy Anh. Sau khi tốt nghiệp, ông vừa chính thức đứng lớp, vừa được viết bài giảng và đảm nhiệm các công việc của những chuyên gia thực thụ. Chỉ 2 năm sau, khi mới 24 tuổi đời, ông đã giữ trọng trách của một Chủ nhiệm bộ môn tổ chức và xây dựng một ngành học giữ vị trí then chốt trong hệ thống các môn học về khoa học xã hội Việt Nam.

Dấn thân vào nghề Sử, Phan Huy Lê quan niệm kinh tế - xã hội là cơ sở nền tảng của toàn bộ lịch sử. 5 công trình lớn trong giai đoạn 5 năm đầu bước vào nghề của ông thuộc về lĩnh vực kinh tế - xã hội. Ðiều này giải thích vì sao những ấn phẩm đầu tiên trong sự nghiệp khoa học của ông là Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (1959), Ðặc điểm của phong trào nông dân Tây Sơn (1959), Lao động và làm thuê trong xã hội phong kiến Việt Nam (1959)…

Khi Phan Huy Lê vừa mới tạo lập được vị trí của mình trong nghiên cứu về kinh tế - xã hội thì cũng là lúc đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Tự ý thức trách nhiệm trước dân tộc, ông chuyển sang nghiên cứu về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và những trận đánh lớn trong lịch sử. Trong đó có những tác phẩm lịch sử quân sự tiêu biểu như: Những công trình Khởi nghĩa Lam Sơn (1965); Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam (1973), Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc (1976)...

Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông tiếp tục dành nhiều tâm huyết cho mảng đề tài chống ngoại xâm. Trong khoảng 15 năm (1975 - 1989), ông viết đến trên 24 công trình lớn, chưa kể hàng chục bài báo và tham luận về đề tài này. GS. Phan Huy Lê bắt đầu mở rộng sang nghiên cứu lĩnh vực văn hóa - truyền thống từ giữa những năm 1970 và sự quan tâm của ông đến lĩnh vực này càng ngày càng toàn diện.

Có thể hình dung toàn bộ trước tác của GS. Phan Huy Lê được chia thành 7 lĩnh vực chủ yếu, với số công trình từ 41 đến 92 (trung bình 58) cho mỗi lĩnh vực. Nhưng trách nhiệm lớn nhất đặt ra cho GS. Phan Huy Lê không phải là từng mảng lịch sử cụ thể mà là tổng kết lịch sử đất nước. Ngay từ năm 1959, nghĩa là khi mới bắt tay viết những trang bản thảo đầu tiên, ông đã có một tập bài giảng Lịch sử Việt Nam từ 1406 đến 1858. Liên tiếp 2 năm sau, ông cho ra mắt “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập II” (1960) và “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập III” (1961), góp phần làm nên tầm vóc của Khoa Lịch sử. Năm 1971, ông cùng GS Trần Quốc Vượng viết “Lịch sử Việt Nam tập I”, được coi là cuốn thông sử đầu tiên của chế độ mới. Trân trọng và đề cao kinh nghiệm viết sử truyền thống, ông lại chính là người đi tiên phong hiện đại hóa và cập nhật các phương pháp nghiên cứu mới. Số lượng các công trình tổng kết lịch sử, những bài giảng, giáo trình và các bộ thông sử có tầm khái quát cao của ông lên đến 41 công trình (chiếm 10,0%), tạo nên sự hoàn hảo và vượt trội trong phẩm chất và tính cách sử học Phan Huy Lê.

Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo Sử học, ông còn được giao trách nhiệm xây dựng hai ngành học mới là Ðông phương học và Việt Nam học. Từ năm 1988 cho đến nay, GS. Phan Huy Lê liên tục là Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ông còn giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt hay là ủy viên của nhiều Hội đồng Quốc gia và ở cương vị nào ông cũng đều có những đóng góp xuất sắc.

Người Thầy lớn…

Tầm uyên bác trong các công trình sử học của GS. Phan Huy Lê bắt nguồn từ trách nhiệm cao cả của một người Thầy, vì theo ông, dạy đại học là dạy kết quả nghiên cứu của chính mình. Hơn nửa thế kỷ qua, ngoài việc giảng dạy chính ở Khoa Lịch sử, ông còn dạy cho nhiều lớp học trò ở trong và ngoài Ðại học Quốc gia Hà Nội, các trường đại học trên thế giới. Ông ra đi để lại khoảng trống không thể lấp đầy với người yêu sử và nghiên cứu lịch sử. Học trò của ông là PGS.GS. Nguyễn Lân Cường xúc động nói: “Một chuyên gia hàng đầu đã tận hiến cả cuộc đời cho sử học, cho đất nước mất đi thì tổn thất này không gì bù đắp nổi”.

Tuy không được GS. Phan Huy Lê đào tạo từ đầu như nhiều người khác, Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, ông đã được GS. Phan Huy Lê chỉ dạy rất nhiều về nghề và cả cách sống. Với ông, GS. Phan Huy Lê không chỉ là người Thầy lớn, mà còn là nhân cách mẫu mực về lòng yêu nước, nặng nợ với dân tộc. Còn trong cảm nhận của Nhà sử học Lê Văn Lan, GS. Phan Huy Lê là một nhân cách lớn, ngay thẳng và mạnh mẽ. Nụ cười hiền lành mà ẩn chứa “chất thép” bên trong cây lau mảnh mai nhỏ bé.

Bằng sự yêu mến và ngưỡng mộ vị giáo sư đáng kính, tác giả Bùi Minh Huệ cho rằng, các nhà nghiên cứu lịch sử, các đồng nghiệp, học trò ngưỡng mộ, noi theo GS. Phan Huy Lê bởi khát khao không bao giờ vơi cạn đi đến những chân trời mới của khoa học. Cùng với đó là lao tâm khổ tứ tìm tòi sáng tạo và những đêm trắng bên kho tư liệu, những chuyến đi đến các miền đất trong cả nước khám phá các trầm tích, tìm hiểu từng di chỉ của bao triều đại nằm dưới lòng đất. Giờ ông đã về với hồn thiêng sông núi, về với ông cha tổ nghiệp mà cả một đời ông ấp ủ tôn vinh, để lại kho di sản vô giá là các tác phẩm nghiên cứu, các công trình khoa học mà ông đã dồn hết trí tuệ, tâm huyết cả đời người, từ khi còn là sinh viên Khoa Sử cho đến giây phút cuối cùng trên giường bệnh.

Và trong những năm tháng cuối đời, GS. Phan Huy Lê vẫn cố gắng làm việc với tập thể nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam để hoàn thành bộ Quốc sử 25 tập do ông làm tổng chủ biên. Ðây không chỉ là nhiệm vụ được giao phó, mà còn là tâm nguyện cuối cùng của ông. GS Phan Huy Lê đã ra đi khi tâm nguyện hoàn thành bộ Quốc sử vẫn còn dang dở. “Khi đi Trường Sa về cụ vui lắm. Lúc nằm trong bệnh viện cụ vẫn nghĩ mình đang làm việc. Có lần cụ nói với con gái “bố quên tắt máy tính”. Cụ vẫn muốn làm việc đến tận giây phút cuối cùng”, GS.TS. Phạm Hồng Tung chia sẻ.

Một số công trình và giải thưởng tiêu biểu của GS. Phan Huy Lê: 

 

- Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, NXB. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959.

 

- Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1960; in lần thứ hai, 1962.

 

- Tìm hiểu thêm về phong trào nông dân Tây Sơn, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1961. Khởi nghĩa Lam Sơn (đồng tác giả), in lần thứ ba, có bổ sung và sửa chữa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977; in lần thứ tư, NXB. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2005.

 

- Lịch sử Việt Nam (đồng tác giả), tập I, NXB. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983; tái bản 1985, 1991.

 

- Về quá trình dân tộc của lịch sử Việt Nam, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1990.

 

- Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay (Chủ biên), tập II, Hà Nội, 1996; tập III, Hà Nội, 1997.

 

- Tìm về cội nguồn, tập I, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1998; in lần thứ hai, 1999; tập II, 1999.

 

Giải thưởng tiêu biểu:

 

- Giải thưởng Nhà nước và khoa học và công nghệ năm 2000 cho công trình Tìm về cội nguồn (2 tập).

 

- Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình “Lịch sử và Văn hóa Việt Nam - Tiếp cận bộ phận”.

 

- Giải thưởng Quốc tế Văn hóa Á châu Kukuoka, Nhật Bản (1996).

 

- Huân chương Cành cọ Hàn lâm của Chính phủ Pháp (2002)...

P. U)

Tác giả: Lê Thị Phương Uyên

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây