Ở Việt Nam có một nhà triết học thì đó là Trần Đức Thảo, còn chúng tôi chỉ là người nghiên cứu triết học mà thôi. Một nhà tư tưởng lớn của đất nước là GS. Trần Văn Giàu đã nói như vậy về GS. Trần Đức Thảo. Ông không chỉ là nhà trí thức lớn của quốc gia mà còn là trí thức mang tầm cỡ quốc tế, “là một con người siêu việt của Việt Nam đã đành, mà còn đáng cho nền văn hóa Pháp tự hào. Con người đó cũng có phần cấu thành của chung nhân loại” (Nguyễn Đình Chú).
Trần Đức Thảo sinh ngày 26-9-1917. Quê gốc của ông ở làng Song Tháp (nay thuộc xã Châu Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh). Năm 1936, ông nhận học bổng của Phủ Toàn quyền Đông Dương sang Paris, Pháp. Năm 1942, ông đậu thủ khoa Thạc sĩ Triết tại Pháp lúc mới 26 tuổi, trở thành người Việt Nam đầu tiên trúng tuyển kỳ thi thạc sĩ triết học.
Từ năm 1944, đang là Tùy viên nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, Trần Đức Thảo đã trình bày tham luận về “Xây dựng nền dân chủ ở Đông Dương” và tiếp xúc với Đảng Cộng sản Pháp. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, thay mặt sinh viên và trí thức Việt Nam du học ở Pháp, Trần Đức Thảo đã viết thư gửi về Tổ quốc, bày tỏ tình yêu nước nồng nàn đối với đất nước. Trả lời phỏng vấn của báo Le Monde “Người Đông Dương sẽ làm gì để đón tiếp khi quân đội quân viễn chinh của Leclecre tới?”, Trần Đức Thảo khẳng khái nói: “Phải nổ súng”. Câu nói này đã làm cho ông phải đi tù 3 tháng vì tội “gây mất an ninh cho nước Pháp”. Trong tù, Trần Đức Thảo viết bài báo nổi tiếng Về Đông Dương (Sur L’ Indochine đăng trên tạp chí Les Tempers modernes) nêu rõ quyết tâm bảo vệ nền độc lập và phản đối thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Pháp (1946) Trần Đức Thảo làm thư ký cho Người và xin được về nước nhưng được khuyên ở lại thêm một thời gian. Hơn 5 năm sau đó ông tiếp tục phát triển sự nghiệp triết học của mình theo hướng macxit và viết nhiều bài kêu gọi kiều bào ủng hộ Việt Minh, ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc. Khi ông vẫn còn ở Pháp, ngày 4-9-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh cử ông là ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục.
Ông cũng là triết gia từng luận bàn với J-P. Sartre - một trong những cây đại thụ triết học và văn học Pháp về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh. Cuộc luận bàn sau đó đã được khép lại và không phân phần thắng bại, nhưng sau này, phu nhân của J-P. Sartre nói rằng Trần Đức Thảo có lý hơn chồng bà…
Năm 1951, Trần Đức Thảo rời Paris tìm đường qua London, Praha, Moskva, Bắc Kinh… rồi về Tân Trào tham gia kháng chiến như một “hiện tượng cá biệt” trong giới trí thức khi đó. Từ năm 1954 - 1957, ông là Phó giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa và Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Có thể nói, ông là người khai sinh môn Lịch sử tư tưởng triết học ở Việt Nam và tiếp tục đề xuất những ý tưởng nền tảng cho việc phát triển giáo dục đại học nước nhà theo hướng khoa học, dân tộc và hiện đại để theo kịp thế giới, kết hợp giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đặc biệt phải coi trọng khoa học xã hội và nhân văn... Những ý tưởng này tới nay vẫn mang tính thời sự.
Mỗi nhà triết học trên thế giới được dành một dòng trong Đại từ điển triết học của thế giới, riêng GS. Trần Đức Thảo được giành hẳn 20 dòng. Nhà nghiên cứu Triết học Bùi Văn Nam Sơn đánh giá về ông: “Đó là một trong những người Việt hiếm hoi được học hành đến nơi đến chốn về triết học và cho thấy người Việt mình cũng có thể tiếp cận rất gần với triết học thế giới”.
Thông thạo tiếng Pháp, tiếng Đức, nghiên cứu sâu sắc Heghen, Husserl, Trần Đức Thảo để lại cho nhân loại khoảng 15 ngàn trang viết bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp, Đức. Những tác phẩm được đánh giá cao nhất trong sự nghiệp của ông là “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”; “Tìm hiểu nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức” (tác phẩm được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000), “Logic của cái hiện tại sống động”... Nhưng để đọc và hiểu những gì Trần Đức Thảo viết phải tích lũy được những tri thức nhất định cần thiết (thông thạo tiếng Pháp hoặc tiếng Đức, am hiểu về môi trường xã hội và môi trường khoa học mà ông đã sống, hiểu biết về nhiều môn khoa học khác...) điều này không phải ai (ở Việt Nam) cũng đạt được.
Ngày 24-4-1993, người đại trí thức, người lữ hành vất vả (chữ dùng của Nguyễn Đình Thi) ấy đã đi hết chặng đường dấn thân của người trí thức “đồng hành cùng lịch sử vất vả của dân tộc” (TS. Nguyễn Đức Thành).
P.V
Tác giả: P.V
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập