Trong số các cư dân của Đồng Nai xưa, có 4 dân tộc được xác định là dân tộc tại chỗ, có mặt từ rất lâu đời gồm: Chơro, Mạ, S’tiêng và K’ho. Trong đó, 2 dân tộc Chơro, Mạ được đánh giá có nền văn hóa riêng, đặc sắc và có tác động nhất định đến không gian văn hóa vùng Đông Nam bộ.
Trong lịch sử phát triển, dân tộc Chơro là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở vùng đồi núi thấp phía Nam, chủ yếu sinh sống tập trung ở khu vực miền Đông Nam bộ. Theo số liệu điều tra, người Chơro ở Đồng Nai hiện chiếm 56,5% tổng số người Chơro trong cả nước, cao nhất so với các tỉnh, thành trong khu vực (Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương). Còn người Mạ chủ yếu sinh sống tại tỉnh Lâm Đồng - trước đây gọi là vùng Đồng Nai Thượng (chiếm tỷ lệ gần 80%), số còn lại ở Đắk Nông (14,4%) và Đồng Nai, sinh sống tập trung ở 2 huyện Định Quán và Tân Phú. Cả 2 dân tộc đều thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Tín ngưỡng tâm linh đặc sắc
Trong Địa chí thành phố Hồ Chí Minh, nhiều học giả có sự đánh giá về tác động của văn hóa tộc người Mạ - Chơro và nhận định ngay cả vùng Sài Gòn xưa cũng thuộc phạm vi không gian văn hóa xã hội của nhóm cư dân này. Theo sách Các dân tộc ít người ở Việt Nam, tên tự gọi của dân tộc là Chrau - Jro, trong đó Chrau có nghĩa là nhóm người, hay tập đoàn người. Tộc danh Chrau Jro còn gắn liền với tên gọi một giống lúa nước cổ truyền mà đồng bào rất thích gieo trồng. Tương tự, cộng đồng người Mạ tự nhận là Cau Mạ (Cau đọc thành Chau, có nghĩa là người, còn Mạ có thể là một phương thức sinh hoạt kinh tế của người làm rẫy).
Người Mạ và Chơro có tín ngưỡng thờ đa thần theo quan niệm “vạn vật hữu linh”. Những hiện tượng thiên nhiên, sự vật trong môi trường sống đều có linh hồn, thần linh thuộc về thế giới siêu hình, có khả năng chi phối đến đời sống con người. Vì thế, người Mạ có hệ thống thần linh mà cao nhất là Yang N’du - vị thần tạo ra thế giới; bên dưới là các vị thần: Yang Koi (thần lúa), Yang Bri (thần rừng), Yang Dah (thần nước), Yang Bơnơm (thần núi…). Hàng năm người Mạ có các lễ cúng quan trọng là cúng thần núi và thần lúa. Theo quan niệm của người Mạ, con số 7 có tính chất là sự vẹn toàn, thể hiện sự tốt lành. Người Chơro thì có lễ hội cúng thần lúa (Ốp Yang Vá, sau này gọi là Sa Yang Va).
Cả dân tộc Mạ lẫn Chơro đều không có chữ viết nên lịch sử được truyền miệng trong cộng đồng, qua nhiều thế hệ. Một số “chuyện đời xưa” của người Mạ đề cập đến thần K’Boong tạo nên mặt đất với trái bầu và 3 cái gùi chứa đựng những yếu tố để dựng nên thế gian và sự sống của loài người. Truyện kể Mạ cũng nhắc đến những tổ tiên ban đầu là Paang Kha và Paang Khem “chui ra” từ các bụi cây; 3 người phụ nữ sinh ra các giống loài con người, trong đó Ka Grum sinh ra Kon Chau (nhóm người Thượng, trong đó có người Mạ), Ka Grúp sinh ra Kon Grum (người Chăm) và Ka Grau sinh ra Kon Yoan (người Kinh).
Người Chơro thì có các chuyện kể về phân bố địa bàn sinh sống. Theo đó, 3 người phụ nữ trong tộc bị lạc nhau, đi về 3 hướng để sinh sống từ đó hình thành cộng đồng gồm: Pôprưng (từ suối Tambung quay ngược đến xã Túc Trưng, huyện Định Quán), Pốptoi (khu vực ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu) và Pôplau (vùng đất từ Gia Huynh đến Trảng Táo, nay thuộc huyện Xuân Lộc).
Giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, cách thức tổ chức cư trú truyền thống của người Mạ theo từng buôn (bon), còn người Chơro là làng (plây). Già làng (kwang bon, hoặc voq plây, tức chủ làng) có vị trí rất quan trọng, thường là người lớn tuổi, có uy tín, hiểu biết và được cộng đồng kính trọng. Trước đây người Chơro theo chế độ mẫu hệ, thể hiện qua việc đặt tên con theo họ mẹ, quyền thừa kế tài sản thuộc về con gái…
Kiến trúc nhà ở của người Mạ và Chơro là nhà sàn bằng vật liệu sẵn có như: gỗ, tre, mây, độ dài ngắn của nhà tùy thuộc vào gia chủ. Trong gia đình có thành viên lập gia đình thì nhà dài được nối tiếp về phía Tây, trước đây có những ngôi nhà sàn dài đến 100m. Điểm khác biệt so với các dân tộc khác là vách nhà của người Mạ, Chơro thường vát nghiêng từ sàn lên mái. Khi bắt đầu làm nhà, già làng đào một hố nhỏ để chôn cột chính, trong hố bỏ một vài cục than hồng rồi mới trồng cột lên, với ý nghĩa than hồng làm ấm áp ngôi nhà đồng thời là dạng “chú yếm” để ma quỷ không xâm nhập.
Gạo là lương thực chính của người Mạ và Chơro. 2 dân tộc này cũng có tập quán nấu cơm trong ống tre lồ ô (cơm lam, tiếng Chơro là piêng đinh), thuận lợi cho môi trường sống trong rừng nhiều ngày khi đi làm rẫy hoặc săn thú. Gạo nếp thì được nấu thành xôi hay làm bánh dày (piêng puh) trong các dịp lễ tiết. Người Mạ và Chơro cũng ăn lương thực phụ là khoai mì, bắp, củ nần, củ chụp. Về thực phẩm, người Mạ và Chơro khai thác chủ yếu từ môi trường xung quanh như: cá suối, cá sông, ốc, tôm tép, thịt rừng, rau rừng các loại (rau má, rau nhíp, rau dền, đọt rau lang, mướp, bí, bầu, măng, đọt mây) được chế biến đơn giản bằng cách luộc, nấu canh, nướng.
Người Mạ và Chơro cũng có tập quán chế biến rượu cần để uống và sử dụng trong lễ tiết, lễ hội; là lễ vật dâng lên thần linh và phương thức bày tỏ lòng mến khách. Rượu cần chế biến từ gạo nấu thành cơm, trộn thêm trấu bổi và men rượu làm từ lá, vỏ và rễ một số loại cây rừng (lá cây Gàng, lá cây Vlân, vỏ cây Ktờram…). Theo già làng Năm Nổi ở làng Chơro ấp Lý Lịch, có đến 37 loại lá, vỏ, rễ cây để làm men rượu cần. Nguyên liệu chế biến rượu cần được cho vào ché sành, ủ trong một vài tháng. Khi uống rượu cần thì đổ nước vào ché, hút bằng cần (làm từ ống trúc nhỏ).
Đời sống văn hóa phong phú
Tác giả: PGS-TS. Lâm Nhân
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập