(CTT-Đồng Nai) - Sông Đồng Nai từ lâu được chọn làm trục chính trong tổ chức không gian kiến trúc và cảnh quan đô thị Biên Hòa. Dòng chảy sông Đồng Nai hơn 325 năm qua vẫn miệt mài bồi đắp nguồn sức sống cho đôi bờ. Để từ đó, Đồng Nai thực sự là một mảnh đất đầy ắp lịch sử, chứng kiến và dung nạp rất nhiều cuộc gặp gỡ giữa các nền văn minh Đông - Tây trên thế giới của hàng trăm năm trước và mãi mãi về sau.

Đồng bào Chơ ro ở TP.Long Khánh nỗ lực gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng thông qua biểu diễn và truyền dạy cho con cháu
Đồng bào Chơ ro ở TP.Long Khánh nỗ lực gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng thông qua biểu diễn và truyền dạy cho con cháu
Xây dựng làng, ấp dọc hai bên bờ sông Đồng Nai
Nhiều năm nghiên cứu văn hóa Đồng Nai, nhà văn Nguyễn Thái Hải (Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai) cho biết, người Việt đặt những bước chân đầu tiên trên đất Nam bộ từ thế kỷ XVII. Khi ấy, vùng đất này thuộc quyền cai trị của vua Chân Lạp Chey Chettha II. Năm 1620, ông trở thành “rể” của chúa Nguyễn Phúc Nguyên khi cưới con gái thứ hai của chúa Nguyễn là công chúa Ngọc Vạn và phong bà làm hoàng hậu Chân Lạp. Có lẽ một phần nhờ vào cái bóng của hoàng hậu mà lưu dân Việt vào Nam lập nghiệp ngày một đông hơn.
Cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa hai họ Trịnh - Nguyễn ở phía Bắc cũng là nguyên nhân khiến số lưu dân vào Nam ngày một tăng lên. Dĩ nhiên, đôi bờ sông Đồng Nai là nơi chứng kiến những làng mạc của người Việt hình thành sớm nhất. Họ cùng với cư dân người Hoa đến cộng cư và cư dân bản địa như: Chơro, Mạ, S’tiêng, K’Ho…khai khẩn đất hoang, xây dựng làng ấp dọc hai bên bờ sông Đồng Nai. Chính sự giao thoa, dung hợp văn hóa trong các tộc người đã đúc kết nên những sắc thái văn hóa riêng, đặc trưng của đất và người Đồng Nai.
Theo TS Lê Quang Cần (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy), vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai vốn dồi dào các nguyên vật liệu từ tự nhiên để phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống. Các nghề thủ công như: mộc, gốm, gạch ngói, nung vôi, dệt chiếu, dệt vải, đúc đồng, làm đá, rèn sắt, làm giấy, làm chum, làm đồ đi ngựa, làm vật dụng bằng đồi mồi, chạm bạc, làm lọng, làm giày, làm nón… dần dần, xuất hiện, chuyên môn hóa hoạt động. Từ đây, xuất hiện nhiều thợ thủ công có chuyên môn cao và tách khỏi nông nghiệp.
“Các sản phẩm nổi bật của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai trước khi được xuất khẩu thì chúng đã có mặt ở hầu hết các chợ. Như thế, việc khai hoang và sản xuất của cư dân Việt cùng các tộc người bản địa trong thế kỷ XVII và các thế kỷ về sau đã làm biến đổi căn bản diện mạo kinh tế trấn Biên Hòa - Đồng Nai” - TS Lê Quang Cần cho hay.
Dọc theo dòng Đồng Nai, đồng bào các dân tộc S’tiêng, Mạ, Chơro, Hoa, Tày Nùng…sinh sống, miệt mài duy trì, giữ gìn và góp sức bảo tồn các giá trị văn hóa, các nghề truyền thống. Trong số đó, có thể kể đến bà Ka Điều, Ka Rỉn (người Mạ, ngụ tại xã Tà Lài, H.Tân Phú) có hơn 30 năm gắn bó với dệt thổ cẩm; già làng Điểu Liệt (người Chơro, ngụ tại xã Túc Trưng, H.Định Quán) giữ lửa đàn Chinh K’la; bà Thị Thành (ấp Lác Chiếu, xã Bảo Quang, TP.Long Khánh) truyền dạy cồng chiêng cho người trẻ; già Điểu Thanh (ấp Suối Dzui, xã Túc Trưng, H.Định Quán) có 60 năm đan lát truyền thống…

Đồng bào Mạ, xã Tà Lài, H.Tân Phú truyền nghề dệt vải cho con cháu
Đồng bào Mạ, xã Tà Lài, H.Tân Phú truyền nghề dệt vải cho con cháu
“Sợi dây” gắn kết văn hóa…
Giữa bối cảnh giao lưu, hội nhập văn hóa hôm nay, việc tìm về và khẳng định lại những giá trị truyền thống luôn là điều nhân văn, ý nghĩa. Bà Ka Điều một trong những người say mê, tâm huyết với nghề dệt thổ cẩm và cũng được học nghề từ các bà, các mẹ đi trước. Không chỉ quyết tâm giữ nghề mà những năm qua, bằng kinh nghiệm của mình, bà còn truyền “bí kíp” của nghề cho các con gái, giống như bà đã từng quanh quẩn học dệt bên bà và mẹ từ thời bé.
“Trước đây nhà nào cũng có khung dệt. Mặc dù cuộc sống của hôm nay đã hiện đại hơn nhưng người Mạ ở Tà Lài vẫn luôn tự hào bởi những sản phẩm tự tay mình dệt nên. Chúng tôi hy vọng thời gian tới, nghề dệt truyền thống sẽ được các cấp, các ngành quan tâm hơn. Qua đó, nâng cao ý thức gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của ông cha” - bà Ka Điều chia sẻ.
Đặc biệt, dòng sông Đồng Nai không chỉ là sợi dây gắn kết văn hóa của người dân vùng đất hơn 325 năm mà còn là dòng sông của một vẻ đẹp vượt thời gian, gắn với các di sản. Vẻ đẹp của sông Đồng Nai không thể tách rời các di sản và sinh hoạt văn hóa của cư dân bản địa. Nhiều di tích lịch sử, văn hóa nằm dọc hai bên bờ sông đã và đang trở thành những điểm đến hấp dẫn người dân và du khách. Có thể kể đến: Địa điểm ghi dấu sự kiện vượt ngục Tà Lài, H.Tân Phú; Chiến khu Đ (H.Vĩnh Cửu); đình Tân Lân, chùa Ông, đình Bình Kính, Văn miếu Trấn Biên (TP.Biên Hòa)…
Hiện, Bảo tàng Đồng Nai đang lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị được trục vớt từ sông Đồng Nai bằng gốm, đá, đồng… qua các thời kỳ. Trong số đó có những hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia như: Bộ sưu tập Đàn đá Bình Đa, Qua đồng Long Giao, Tượng thần Vishnu Bình Hòa. Có thể nói, các hiện vật từ lòng sông, các di tích lịch sử, danh thắng trên vùng đất này đều gắn liền với dòng Đồng Nai và cảnh quan đôi bờ. Đây là một phần của lịch sử trong mạch chảy của dòng sông, là một phần trong lịch sử văn hóa Biên Hòa - Đồng Nai.

Nghi lễ nghinh thần trong Lễ hội chùa Ông, P.Hiệp Hòa, TP.Biên Hòa năm 2023 diễn ra trên dòng sông Đồng Nai
Nghi lễ nghinh thần trong Lễ hội chùa Ông, P.Hiệp Hòa, TP.Biên Hòa năm 2023 diễn ra trên dòng sông Đồng Nai