Mục tiêu tổng quát là chủ động tham gia xu thế toàn cầu phát triển các-bon thấp; huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển điện lực; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ đốt kèm nhiên liệu sạch để giảm dần phát thải trong các nhà máy nhiệt điện than; đưa ra lộ trình dừng hoạt động các nhà máy nhiệt điện than đã hết đời sống kinh tế, công nghệ cũ; đẩy mạnh khai thác và sử dụng tối đa các nguồn năng lượng tái tạo cho sản xuất điện, bảo đảm cung cấp đủ điện, ổn định, chất lượng ngày càng cao với giá điện hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, giải pháp toàn diện ứng phó với biến đổi khí hậu và chuyển dịch năng lượng nhằm thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Mục tiêu cụ thể giai đoạn đến năm 2030 là nghiên cứu thí điểm lắp đặt hệ thống thu gửi các-bon cho nhà máy nhiệt điện than sử dụng công nghệ cũ, hiệu suất thấp. Xem xét dừng hoạt động khoảng 540 MW (NMNĐ Phả Lại, công suất 440 MW và NMNĐ Ninh Bình, công suất 100 MW) nếu các nhà máy điện than đã hết đời sống kinh tế, công nghệ cũ, hiệu suất thấp không giải quyết cải thiện được vấn đề hiệu suất và phát thải.
Nghiên cứu, thí điểm áp dụng công nghệ đốt kèm nhiên liệu sinh khối, amoniac tại các nhà máy nhiệt điện than để giảm phát thải CO2. Khuyến khích các nhà máy điện than đốt kèm và chuyển dần sang sử dụng nhiên liệu sinh khối, amoniac.
Ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện; tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo (gồm cả thủy điện) đạt khoảng 29,2 - 37,7%. Đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nhằm đạt mục tiêu tiết kiệm từ 08 - 10% tổng năng lượng tiêu thụ quốc gia. Phấn đấu hoàn thành đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong khoảng 05 năm, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển và bảo vệ môi trường.
Giai đoạn 2031 - 2040, kiên quyết dừng hoạt động các nhà máy điện than có hiệu suất thấp, đã hết đời sống kinh tế, công nghệ cũ và không có khả năng cải tạo. Không cấp phép và xây dựng mới nhà máy nhiệt điện than. Khuyến khích các nhà máy nhiệt điện than chuyển đổi nhiên liệu sang đốt kèm hoặc thay thế hoàn toàn bằng nhiên liệu sinh khối, amoniac. Thực hiện chuyển đổi nhiên liệu các nhà máy nhiệt điện than sang đốt kèm nhiên liệu sinh khối hoặc amoniac sau 20 năm vận hành với tỷ lệ đốt kèm bắt đầu từ 20%, tăng dần dần lên 100%.
Ban hành cơ chế, chính sách, hỗ trợ áp dụng rộng rãi nếu thí điểm có hiệu quả hệ thống thu giữ các bon cho các nhà máy điện than. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhằm khai thác hiệu quả tài nguyên quốc gia, nâng cao tính tự chủ của ngành điện. Tập trung phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo trong nước để tăng độc lập tự chủ, giảm giá thành.
Đến năm 2045, phát triển các nguồn điện sạch tối thiểu 1.160MW thay thế để bù vào các nguồn điện, đảm bảo cung cấp đủ điện cho hệ thống điện quốc gia để xem xét dừng hoạt động khoảng 1.160 MW1 nhiệt điện than đối với các nhà máy điện than đã hết đời sống kinh tế (nếu không chuyển đổi nhiên liệu). Tiếp tục thực hiện chuyển đổi nhiên liệu các nhà máy điện than sau 20 năm vận hành sang đốt kèm sinh khối, amoniac với tổng công suất 18.642 MW; chuyển hoàn toàn các nhà máy nhiệt điện than sang sinh khối, amoniac với tổng công suất 6.990 MW.
Đến năm 2050, phát triển đủ các nguồn điện sạch thay thế để bù vào các nguồn điện với công suất tối thiểu 3.335MW, đảm bảo cung cấp đủ điện cho hệ thống điện quốc gia để xem xét dừng hoạt động khoảng 3.335 MW2 nhiệt điện than đối với các nhà máy điện than đã hết đời sống kinh tế (nếu không chuyển đổi nhiên liệu hoặc lắp đặt hệ thống thu giữ cac bon). Thực hiện chuyển đổi nhiên liệu các nhà máy nhiệt điện than sang sử dụng hoàn toàn nhiên liệu sinh khối, amoniac với tổng công suất 25.632 - 28.832 MW; lắp đặt hệ thống thu giữ các bon cho các nhà máy điện than.
Giai đoạn từ năm 2050, định hướng không sử dụng nhiên liệu than cho sản xuất điện./.