Rắc rối khi vợ chồng tranh chấp phân chia tài sản chung

Thứ hai - 23/10/2023 09:42
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
(CTT-Đồng Nai) - Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng là đất đai, pháp luật bắt buộc phải xác lập hợp đồng bằng văn bản, có công chứng hay chứng thực và đăng ký biến động theo đúng quy định pháp luật về đất đai.

Luật sư Trần Văn Giáp (tay trái, Đoàn Luật sư tỉnh) tư vấn cho người dân xã La Ngà (H.Định Quán) về tranh chấp dân sự tại buổi tuyên truyền do Đoàn Luật sư tỉnh phối hợp với địa phương tổ chức
Luật sư Trần Văn Giáp (tay trái, Đoàn Luật sư tỉnh) tư vấn cho người dân xã La Ngà (H.Định Quán) về tranh chấp dân sự tại buổi tuyên truyền do Đoàn Luật sư tỉnh phối hợp với địa phương tổ chức

Đồng thời, pháp luật cho phép vợ/chồng được nhận tỷ lệ nhiều hơn người kia khi phân chia tài sản chung nếu họ là người có công đóng góp nhiều hơn.

* Ai được chia nhiều hơn?
 
Vợ chồng bà H.K. và ông B.B.M. (ngụ TP.Long Khánh) tranh chấp nhau về tỷ lệ phân chia nhà và đất hiện là tài sản chung của vợ chồng. Bà H.K. trình bày, khi lập gia đình với ông M., vợ chồng bà được cha mẹ ruột của bà tặng cho nhà đất trên để ở và được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở vào năm 2015 mang tên vợ chồng bà. Do tài sản này có nguồn gốc từ cha mẹ ruột của bà tặng cho nên khi ly hôn bà phải được 70% giá trị tài sản, chứ không phải chia đôi mỗi người 50% giá trị căn nhà và đất.
 
Luật sư Trần Văn Giáp (Đoàn Luật sư Đồng Nai) cho biết, việc vợ chồng có tài sản chung mà nguồn gốc tài sản này được cha mẹ bên vợ/chồng tặng cho, được vợ/chồng đưa tài sản riêng vào khối tài sản chung hoặc tạo lập từ thu nhập của một người, còn người kia ở nhà nội trợ… khi phân chia cũng gặp một số vướng mắc, vì bên nào cũng đòi phần hơn thuộc về mình.

Chính vì vậy, theo luật sư Giáp, việc bà H.K. yêu cầu phân chia tỷ lệ cụ thể như vậy căn cứ vào khoản 2, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và điểm b, khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 6-1-2016 của TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
 
Luật sư Giáp phân tích, theo khoản 2, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Đồng thời, tại điểm b, khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

“Do việc xác định công sức đóng góp mà luật và thông tư liên tịch hướng dẫn còn mang tính chất định tính, chưa có một định lượng theo tỷ lệ phần trăm các bên được hưởng một cách rõ ràng, cụ thể dẫn tới chuyện vợ hoặc chồng đòi chia 60%, 65% hay 70% trong khối tài sản chung khi ly hôn đều do hội đồng xét xử quyết định. Chính điều này, các đương sự thường kháng cáo để yêu cầu cấp phúc thẩm chia lại” - luật sư Giáp dẫn chứng.

* Thỏa thuận bằng giấy tay là chưa đủ
 
Trong quá trình chung sống, vợ chồng bà T.T.L. - ông H.Q. (cùng ngụ xã Núi Tượng, H.Tân Phú) có tạo lập được 1,2ha đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) đứng tên cả hai vào năm 2010. Đầu năm 2022, vợ chồng bà L. lập hợp đồng thỏa thuận phân chia bằng giấy viết tay, không có công chứng, chứng thực mỗi người ½ diện tích đất làm tài sản riêng và ông Q. hỗ trợ cho bà L. 100 triệu đồng để bà chi tiêu khi cần.
 
Đầu năm 2023, ông Q. muốn chuyển nhượng phần diện tích đất sau khi được phân chia cho người khác thì bị bà L. phản đối, ngăn cản. Bà L. cho rằng, việc phân chia đất giữa họ trước đây bị vô hiệu do vi phạm hình thức, tức hợp đồng không tuân thủ khoản 2, Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 502, Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 3, Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 (không được công chứng, đăng ký biến động tại cơ quan có thẩm quyền).
 
Trao đổi về vấn đề này, luật sư Lê Đình Lý (Đoàn Luật sư Đồng Nai) phân tích, đối với tài sản là bất động sản, ngay cả khi một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong văn bản thỏa thuận phân chia thì vẫn bắt buộc phải lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực theo quy định tại Điều 502, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Khoản 3, Điều 167, Luật Đất đai năm 2013. Lúc đó, việc thỏa thuận phân chia QSDĐ của vợ chồng sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.

Tác giả: Nhân Thái

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây