Chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thứ hai - 19/08/2024 15:29
  • Xem với cỡ chữ 
  •  
  •  
  •  
(CTT-Đồng Nai) - Cách đây 55 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã về cõi vĩnh hằng. Di chúc của Người để lại là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh tinh hoa, tư tưởng đạo đức, nhân văn, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc tại Căn cứ Việt Bắc (Nguồn: https://backan.gov.vn/)
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phòng làm việc tại Căn cứ Việt Bắc (Nguồn: https://backan.gov.vn/)

Chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn, triết lý nhân sinh thấm đượm trong di chúc của Người đó là lấy thực tiễn làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và sự phát triển của con người là mục tiêu. Đó là một triết lý hành động, đạo lý làm người, đạo lý làm việc. Người xác định “Đầu tiên là công việc đối với con người” . Người căn dặn, mọi công việc đều hướng vào phục vụ con người, làm cho con người được phát triển toàn diện, để con người làm chủ bản thân, có tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Theo Người, đó là công việc nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm.

Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (thương binh, bệnh binh…) trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, chúng ta phải bằng mọi cách chăm sóc, tạo điều kiện nơi ăn chốn ở yên ổn, mở lớp dạy nghề thích hợp để họ có hành trang cần thiết trong cuộc sống. Đối với những người đã hy sinh, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm để mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh anh dũng của họ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho các thế hệ hiện nay và mai sau. Khi gia đình, người thân của thương binh, liệt sĩ gặp khó khăn, chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ, quyết không để họ thiếu thốn. Đối với nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm, để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất sau nhiều năm đã liên tục ra sức góp người, góp của, chịu đựng khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc…

Với lòng độ lượng khoan dung, Người yêu cầu chúng ta kết hợp giáo dục với sử dụng luật pháp để cải tạo, giúp đỡ những người là nạn nhân của xã hội cũ, để họ trở thành người lao động mới lương thiện.

Xuất phát từ triết lý nhân sinh sâu sắc, thấm đượm tư tưởng nhân đạo và tính nhân văn khi để lại cho chúng ta trong bản di chúc thiêng liêng, với lòng mong muốn khôn nguôi là “Xây dựng một nước Viêt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” . Người đề xướng một chính sách xã hội chu đáo, toàn diện với con người. Người không chỉ quan tâm đến đời sống nhân dân mà trên hết là chăm lo giáo dục, đào tạo họ, làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người yêu cầu chúng ta sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”.
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cháu nhi đồng (Nguồn ảnh: https://www.bqllang.gov.vn/)
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cháu nhi đồng (Nguồn ảnh: https://www.bqllang.gov.vn/)

Triết lý nhân sinh của Người là sự gắn kết giữa chủ nghĩa nhân đạo cao cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo và tính nhân văn ấy là truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam, kết hợp với truyền thống nhân ái của nhân loại. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là lòng thương yêu, quý trọng con người, gắn với lòng yêu nước nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo và tính nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Phương thức thực hiện của chủ nghĩa nhân văn ấy là hành động, hoạt động thực tiễn cách mạng.

Được sinh ra và nuôi dưỡng bởi một dân tộc có truyền thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, có nền văn hóa nhân bản và khát vọng cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp, song lại phải hứng chịu nỗi bất công bởi sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận ra nỗi đau của người dân mất nước, nỗi nhục của kiếp đời nô lệ. Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc từ nỗi đau, thương người, không cam chịu áp bức bất công, từ những suy nghĩ mang tính nhân đạo, nhân văn, coi con người sinh ra ai cũng có quyền sống bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc. Mục tiêu không bao giờ thay đổi ở Người là giải phóng dân tộc, giải phóng con người, đem lại cho dân tộc quyền tự do, bình đẳng trong phát triển, làm cho đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được sống trong niềm vui hạnh phúc.

Với tư tưởng hiện thực đó, triết lý nhân sinh của Người đã trở thành một triết lý nhân sinh hành động. Con người không thể mưu cầu hạnh phúc cho mình bằng cách ngồi yên trông chờ sự ban phát từ đâu đó ở bên ngoài mà phải bắt tay hành động, tiến hành hoạt động thực tiễn để tự mình giành lấy hạnh phúc cho mình, cho dân tộc. Theo Người, chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn phải được thể hiện thành hành động, thành hoạt động thực tiễn cách mạng theo triết lý nhân sinh hành động. Vì thực hành là nền tảng của lý luận và lý luận lại phụng sự thực hành. Quá trình thực hành (sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp, khoa học thực nghiệm) người ta mới đạt được kết quả đã dự tính trong tư tưởng, lúc đó sự hiểu biết mới được xác thực. Biến triết lý nhân sinh thành hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã tiến hành đấu tranh không mệt mỏi, cống hiến không tiếc sức mình cho độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Ngay cả khi phải từ biệt thế giới này theo quy luật sinh tồn, Người vẫn lấy làm tiếc vì không còn được phục vụ Nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Suốt đời phục vụ, mưu cầu hạnh phúc cho Nhân dân nhưng trước khi qua đời, Người không đòi hỏi bất cứ điều gì cho riêng mình; Người căn dặn, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của Nhân dân. Ngay cả thi hài của mình, Người cũng yêu cầu được đốt đi để “Đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng” . Nơi để hộp tro thi hài thì “Không nên có bia đá, tượng đồng mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi” .
 
Tư tưởng vì con người của Bác quả là xưa nay hiếm. Nếu không có một triết lý nhân sinh hành động, chủ nghĩa nhân đạo cao cả và tư tưởng nhân văn sâu sắc ở Người thì không thể có được quan điểm vì con người mà quên cả thân mình như thế. Người cho rằng, mục tiêu số một khi đất nước còn đắm chìm trong ách nô lệ là giải phóng dân tộc, khi đất nước đã được độc lập thì mục tiêu hàng đầu, nhiệm vụ trung tâm là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trước hết phải là xã hội vì con người, chính triết lý nhân sinh đó đã hun đúc ở Người niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Với triết lý nhân sinh đó, trước khi trở về cõi vĩnh hằng, Người tin rằng còn non, còn nước, còn người thì công cuộc xây dựng xã hội mới, công cuộc đấu tranh chống lại những gì đã cũ, hư hỏng (quan liêu, tham những, lãng phí…) để tạo ra những cái mới tốt đẹp, dù rất to lớn, nặng nề và phức tạp, song thắng lợi là điều chắc chắn.
 
Sự giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguồn ảnh: https://www.bqllang.gov.vn/)
Sự giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguồn ảnh: https://www.bqllang.gov.vn/)

Kỷ niệm 55 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dịp để toàn thể nhân dân ta tỏ lòng thành kính nhớ ơn Người, đồng thời để các tổ chức Đảng, từng cán bộ, đảng viên ghi nhớ và thực hiện hiệu quả những điều Bác căn dặn, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng giành được thắng lợi, đáp ứng mong đợi của nhân dân cũng như tình cảm, mong muốn và niềm tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong di chúc của Người.

Tác giả: Trần Trọng Tá

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây