5.1. Thương mại dịch vụ
Năm 2023 hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ hoạt động khá ổn định, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng, giá các mặt hàng thiết yếu không có biến động nhiều; nguồn cung hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Ngành Công thương phối hợp các đơn vị liên quan đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, hưởng ứng cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam và các phiên chợ hàng Việt về nông thôn phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân. Bên cạnh đó các siêu thị, đơn vị kinh doanh, cửa hàng và trung tâm thương mại tổ chức các chương trình khuyến mãi lớn, giảm giá được áp dụng dịp cuối năm nhằm kích thích nhu cầu mua sắm của người dân, góp phần tăng doanh thu ngành thương mại, dịch vụ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12năm 2023 ước đạt 24.134, 42 tỷ đồng, tăng 5,14% so với tháng trước và tăng 8,46% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Ước năm 2023 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 262.630 tỷ đồng, tăng 12,16% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước ước đạt 15.623,06 tỷ đồng, tăng 12,37%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 240.212,04 tỷ đồng, tăng 11,97%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 6.795 tỷ đồng, tăng 18,44% so với cùng kỳ.Phân theo ngành hoạt động như sau:
a) Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 12 ước đạt 17.818,37 tỷ đồng, tăng 6,08% so với tháng trước. Là tháng cuối năm có các ngày lễ NOEL và Tết dương lịch nên nhu cầu mua sắm đồ trang sức, quần áo và đồ dùng gia đình của người dân tăng. Các doanh nghiệp, trung tâm thương mại, siêu thị triển khai các chương trình kích cầu thị trường; tăng cường quảng bá, tiếp thị sản phẩm, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng, các chương trình khuyến mãi giảm giá sâucác sản phẩm tiêu dùng như: tivi, tủ lạnh, máy giặt, hàng may mặc, giày dép… đã thu hút được lượng lớn khách hàng đến mua sắm góp phần làm tăng doanh thu bán lẻ.
Dự ước quý IV/2023, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 51.041,35 tỷ đồng, tăng 6,48% so với quý III/2023 và tăng 5,92% so quý IV/2022, tăng cao nhất là nhóm nhóm Xăng dầu các loại tăng (+20,26%); Vật phẩm văn hóa, giáo dục (+16,76%); Gỗ và vật liệu xây dựng (+14,77%).
Ước năm 2023 doanh thu bán lẻ ước đạt 191.893,8 tỷ đồng, tăng 9,13% so với cùng kỳ. Một số nhóm hànghoá có mức tăng khá so cùng kỳ như: Lương thực, thực phẩm tăng 5,95%, hàng may mặc tăng 11,6%; đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đìnhtăng 6,47%; Vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 21,59%; xăng dầu các loại tăng 14,84% ...
b) Lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 12 năm 2023 đạt 2.322,71 tỷ đồng, tăng 2,33% so với tháng trước và tăng 14,13% so với tháng cùng kỳ năm trước. Dự ước quý IV đạt 6.837,8 tỷ đồng, tăng 19,45% so cùng kỳ. Tính chung cả năm 2023, doanh thu ngành lưu trú, ăn uống ước đạt 25.516,3 tỷ đồng, tăng 21,96% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu hoạt động lưu trú dự ước đạt 299 tỷ đồng, tăng 44,9%; Doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 25.217,4 tỷ đồng, tăng 21,73% so cùng kỳ.
Doanh thu du lịch lữ hành tháng 12 năm 2023 ước đạt 68,2 tỷ đồng, tăng 6,11% so với tháng trước, tăng 18,71% so với tháng cùng kỳ. Dự ước quý IV/2023 doanh thu du lịch đạt 17,63 tỷ đồng, tăng 18,12% so cùng kỳ; Tính chung cả năm 2023 ước đạt 68,2 tỷ đồng, tăng 81,12% so cùng kỳ. Năm 2023 các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh đã phục hồi và phát triển, tập trung đầu tư cơ sở vật chất nhằm thu hút và phục vụ nhu cầu du lịch người dân trong ngày nghỉ cuối tuần và các dịp Lễ, Tết... đến tham quan nghỉ dưỡng.
c) Hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tháng 12 năm 2023 ước đạt 3.987,1 tỷ đồng, tăng 2,75% so với tháng trước và tăng 13,51% so tháng cùng kỳ. Hoạt động ngành dịch vụ hành chính và dịch vụ hộ trợ phát triển ổn định, các dịch vụ vui chơi, giải trí và các dịch vụ hỗ trợ tiếp tục tăng so với tháng trước… Dự ước quý IV/2023 đạt 11.702,4 tỷ đồng, tăng 17,32% so cùng kỳ. Tính chung cả năm 2023, doanh thu dịch vụ đạt 45.151,6 tỷ đồng, tăng 20,83% so với cùng kỳ. Trong đó: Dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 19,69%; Dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 11,82%; Dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 24,98%; Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 22,07%; Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 19,79%; Dịch vụ khác tăng 20,16% so với cùng kỳ.
5.2. Giá cả thị trường
Chỉ số giá tiêu dùng 12 năm 2023 ổn định không có biến động nhiều.UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch số 240/KH-UBND, ngày 10 tháng 10 năm 2023 về việc thực hiện chương trình bình ổn giá, bình ổn thị trường một số mặt hàng thiết yếu phục vụ tết Nguyên Đán năm 2024; các cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại có nhiều chương trình khuyến mãi nhằm kích thích nhu cầu mua sắm dịp cuối năm. Trong tháng giá các mặt hàng xăng dầu được điều chỉnh tăng do ảnh hưởng của giá thế giới, tuy nhiên giá bình quân trong tháng 12 giảm so với tháng trước; giá gas ổn định, một số nhóm hàng hoá giảm so tháng trước là nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2023 giảm 0,15% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 2,36%.
- Chỉ số giá tiêu dùng quý IV/2023 tăng 2,43% so với quý cùng kỳ.
- Bình quân 12 tháng, CPI tăng 2,28% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, CPI tháng 12/2023 giảm 0,15% (Khu vực thành thị giảm 0,13%; khu vực nông thôn giảm 0,16%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 3 nhóm hàng tăng giá và 6 nhóm hàng hoá giảm so với tháng trước. Diễn biến giá tiêu dùng tháng 12/2023 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
Nhà ở và vật liệu xây dựng (+0,59%)
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 12/2023 tăng 0,59% so với tháng trước đóng góp vào mức tăng chung của CPI là 0,12%. Nguyên nhân do giá nước sinh hoạt tăng bình quân 3,11%; giá điện sinh hoạt tăng bình quân 2,44% so với tháng trước. Giá vật liệu bảo dưỡng và sửa chữa nhà tăng 0,18% so với tháng trước chủ yếu là do các mặt hàng cát, đá, sỏi tăng. Riêng giá mặt hàng gas ổn định so với tháng trước; giá mặt hàng dầu hoả giảm 5,19%.
Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,22%)
Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tháng 12/2023 tăng 0,22% so với tháng trước; thời tiết tháng 12 đã chuyển sang mùa nắng, nóng nên nhu cầu mua sắm đồ dùng trong gia đình tăng, giá các mặt hàng quạt điện tăng 0,24%; máy ép hoa quả các loại tăng 0,67%; các mặt hàng đồ dùng kim loại tăng 1,02% so với tháng trước; Bên cạnh đó nhiều mặt hàng cũng có các chương trình khuyến mãi giảm giá làm cho giá giảm như máy giặt các loại giảm 0,28%; các mặt hàng chăn, ga, gối giảm 0,81%.
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,15%)
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 12/2023 giảm 0,15% so với tháng trước, làm giảm mức tăng chung của CPI là (-0,05%), trong đó lương thực tăng 0,16%, thực phẩm giảm 0,27%, ăn uống ngoài gia đình trong tháng giảm 0,03% so với tháng trước.
+ Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 12/2023 tăng 0,16% so với tháng trước, do giá các mặt hàng gạo tăng bình quân 0,33% so với tháng trước nguyên nhân là do nhu cầu các mặt hàng gạo dùng để chế biến tăng.
+ Giá thực phẩm tháng 12/2023 giảm 0,27% so với tháng trước, nguyên nhân giảm chủ yếu là do giá các mặt hàng thịt gia cầm giảm 0,13%; thịt chế biến giảm 0,15%; dầu mỡ ăn và các loại chất béo khác giảm 0,47%, trứng các loại giảm 0,45% do nguồn cung dồi dào nên giá giảm…Giá các mặt hàng rau tươi, khô và chế biến giảm 0,92% so với tháng trước do thời tiết thuận lợi và thời gian thu hoạch nhiều loại rau, củ nên năng suất và sản lượng nhiều làm cho nguồn cung trên thị trường dồi dào.
Đồ uống và thuốc lá (-0,31%)
Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tháng 12/2023 giảm 0,31% so với tháng trước, tác động làm giảm mức tăng chung CPI trong tháng là (-0,01%). Trong tháng các cửa hàng, siêu thị, doanh nghiệp có các chương trình khuyến mãi giảm giá để kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân; bên cạnh đó nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng đồ uống có cồn giảm tác động làm cho chỉ số giá chung giảm so tháng trước.
Giao thông (-2,08%)
Chỉ số giá nhóm giao thông trong tháng 12 giảm 2,08%, tác động làm giảm mức tăng chung CPI trong tháng là 0,21%. Giá các mặt hàng xăng, dầu trong tháng điều chỉnh tăng do ảnh hưởng giá thế giới, tuy nhiên giá bình quân của tháng vẫn giảm so với tháng trước, Cụ thể: Giá các mặt hàng nhiên liệu trong tháng giảm 4,85% trong đó giá xăng giảm 5,31%; giá dầu DO giảm 7,62%.
May mặc, mũ nón, giày dép (-0,2%)
Chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tháng 12/2023 giảm 0,2% so với tháng trước; tác động làm giảm mức tăng chung CPI trong tháng là (-0,01%).
- Các nhóm còn lại có chỉ số giá ổn định so tháng trước.
So với cùng tháng năm trước,CPI tháng 12/2023 tăng 2,36%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 04 nhóm hàng hoá tăng cao hơn mức tăng chung là: Thuốc và dịch vụ y tế (+9,04%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+2,59%); Giao thông (+3,2%); Hàng hoá và dịch vụ khác (+7,42%). Có 03 nhóm hàng hóa giảm là: May mặc, mũ nón, giày dép (-0,38%); bưu chính viễn thông (-0,73%); văn hoá, giải trí và du lịch (-1,76%).
Chỉ số giá bình quân 12 tháng tăng 2,28% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Giáo dục (+7,9%); đồ dùng và dịch vụ khác(+5,08%); văn hoá, giải trí và du lịch (+3,81%); hàng ăn và dịch vụ ăn uống(+3,51%); đồ uống và thuốc lá (+2,71%); thiết bị và đồ dùng gia đình(+2,52%); thuốc và dịch vụ y tế(+1,73%); nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+1,29%); may mặc, mũ nón và giày dép (+0,43%). Có 02 nhóm chỉ số giá giảm là giao thông giảm 2,44%; bưu chính viễn thông giảm 0,48%.
- Chỉ số giá vàng tháng 12 năm 2023 tăng 3,45% so với tháng trước; so với tháng 12/2022 tăng 15,4%. Bình quân năm 2023 tăng 4,97% so với cùng kỳ.
- Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 12 năm 2023 tăng 0,42% so tháng trước; so với tháng 12/2022 tăng 0,62%. Bình quân năm 2023 tăng 0,69% so cùng kỳ.
5.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Bước sang tháng 12 tình hình xuất khẩu hàng hoá đã có những chuyển biến tích cực hơn, lạm phát trên thế giới tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, châu Âu đang có dấu hiệu hạ nhiệt, một số doanh nghiệp đã ký được đơn hàng mới; cùng với nhu cầu tiêu thụ hàng hóa cuối năm tăng cao đã góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu so với tháng trước.
Ước kim ngạch xuất khẩu tháng 12 năm 2023 trên địa bàn đạt 1.899,6 triệu USD, tăng 3,71% so với tháng trước và giảm 0,69% so tháng cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng xuất khẩu tăng so cùng kỳ như: Hạt điều (+55,98%); Cà phê (+42,24%); Máy vi tính (+7,68%);… Tuy nhiên một số ngành xuất khẩu gặp khó khăn về đơn hàng và thị trường xuất khẩu giảm so cùng kỳ như: Sản phẩm gỗ (-30,73%); Sản phẩm từ sắt thép (-22,12%); Sản phẩm từ chất dẻo (-20,81%); giày dép các loại (-16,33%); Xơ, sợi dệt các loại (-13,72%); hàng dệt may (-13,35%); Máy móc thiết bị (-13,18%);Hạt tiêu (-6,43%); Cao su (-2,91%); Phương tiện vận tải và phụ tùng (-2,42%)...
Ước cả năm 2023 kim ngạch xuất khẩu đạt 21.628,57 triệu USD giảm 12,08% so với cùng kỳ (Mục tiêu NQ đề ra tăng 8-10%). Trong đó: kinh tế nhà nước đạt 466,42 triệu USD, giảm 16,42%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 5.277,4 triệu USD, giảm 8,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15.884,8 triệu USD, giảm 13,08% so cùng kỳ.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2023 dự ước giảm mạnh so cùng kỳ do tình hình kinh tế thế giới suy thoái và lạm phát cao cùng với các chính sách thắt chặt tiền tệ, sức mua tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... đều giảm khiến số lượng đơn đặt hàng giảm; các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu hụt đơn hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng không thiết yếu như: Sản xuất đồ gỗ, giày da, hàng may mặc, dệt… bên cạnh đó lượng hàng tồn kho cao tại các hệ thống bán lẻ sẽ làm giảm hoạt động sản xuất, xuất khẩu tăng chậm.
Thị trường xuất khẩu trong năm 2023 tập trung chủ yếu ở các nước: Hoa Kỳ đạt 6.232,4 triệu USD, chiếm 28,82%; Trung Quốc đạt 2.244 triệu USD, chiếm 10,38%; Nhật Bản đạt 2.237,6 triệu USD, chiếm 10,35%; Hàn Quốc đạt 1.210 triệu USD, chiếm 5,6%…
Kim ngạch nhập khẩu tháng 12 ước đạt 1.386,5 triệu USD, tăng 4,46% so tháng trước và giảm 3,35% so tháng cùng kỳ; Tháng 12 tình hình nhập khẩu nguyên liệu hàng hoá sản xuất của các doanh nghiệp tăng so với tháng trước do nhiều doanh nghiệp tranh thủ nhập nguyên liệu để chuẩn bị cho các đơn hàng mới và một số doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu khi giá một số mặt hàng đang có xu hướng giảm.
Tính chung cả năm 2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 15.708,9 triệu USD, giảm 17,06% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước đạt 201,8 triệu USD, giảm 20,35%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.332,6 triệu USD, giảm 37,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13.174,5 triệu USD, giảm 11,9% so cùng kỳ. Nguyên nhân kim ngạch nhập khẩu giảm so cùng kỳ do thị trường xuất khẩu giảm, thiếu đơn hàng xuất khẩu nên doanh nghiệp hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, Mặt khác kinh tế thế giới khó khăn nên tiến độ triển khai các dự án đầu tư chậm lại, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị triển khai dự án giảm. chuỗi cung ứng vẫn nguy cơ gián đoạn, đặc biệt cung ứng nguyên nhiên vật liệu, đến này giá nhiều loại hàng hóa, dịch vụ mặc dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao, kết hợp với lượng đơn hàng xuất khẩu ít, nên ảnh hưởng đến việc nhập khẩu nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất.
Thị trường nhập khẩu trong năm 2023 chủ yếu ở các nước: Trung Quốc đạt 4.322 triệu USD, chiếm 27,52%; Hàn Quốc đạt 1.946 triệu USD, chiếm 12,4%; Nhật Bản đạt 1.124 triệu USD, chiếm 7,16%; Thị trường Mỹ đạt 1.031 triệu USD, chiếm 6,57%...
5.4. Giao thông vận tải và Bưu chính viễn thông
Trong tháng 12 tình hình hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa, cũng như các dịch vụ logictis tiếp tục tăng đã làm cho doanh thu hoạt động vận tải, bốc xếp và các dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 12 tăng so với tháng trước, đâylà cơ hội để ngành vận tải hồi phục sau thời gian dài gặp khó khăn. Mặt khác, tháng 12 có nhiều ngày lễ và cận Tết Nguyên đán nên nhu cầu đi lại của người dân và nhu cầu lưu thông hàng hóa tăng. Dự tính doanh thu của hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 12 năm 2023 ước đạt 2.671,6 tỷ đồng, tăng 3,53% so với tháng trước; tăng 10,58% so với tháng cùng kỳ. Dự ước quý IV/2023 doanh thu đạt 7.801 tỷ đồng, tăng 12,37% so cùng kỳ.
Tính chung cả năm 2023, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 30.365,9 tỷ đồng, tăng 18,89% so cùng kỳ. Trong đó: Dịch vụ vận tải hành khách tăng 59,01%; nhóm dịch vụ vận tải hàng hóa tăng 15,61%; nhóm dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải tăng 12,26%. Cụ thể từng lĩnh vực vận tải như sau:
a) Vận tải hành khách
Dự ước doanh thu tháng 12/2023 đạt 348,8 tỷ đồng, tăng 3,55% so tháng trước và tăng 16,28% so cùng tháng năm trước. Ước quý IV/2023 doanh thu vận tải hành khách đạt 1.021 tỷ đồng, tăng 17,29% so cùng kỳ. Cả năm 2023, doanh thu vận tải hành khách đạt 4.089,56 tỷ đồng, tăng 59,01% so cùng kỳ.
Sản lượng vận chuyển hành khách cả năm 2023 ước đạt 72.802 nghìn lượt hành khách, tăng 21,83% so với cùng kỳ, luân chuyển ước đạt 4.272.499 nghìn lượt hành khách.Km, tăng 33,61%. Trong đó sản lượng vận chuyển đường bộ ước đạt 71.565 nghìn lượt hành khách, tăng 21,44%; luân chuyển ước đạt 4.271.809 nghìn lượt hành khách.Km tăng 33,61% so với cùng kỳ năm trước.
Trên địa bàn tỉnh có 231 tuyến vận tải hành khách tuyến cố định đối lưu với 30 tỉnh, thành với tổng số chuyến là 10.509 chuyến/tháng, hàng ngày có 350 chuyến xe hoạt động; Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt có 19 tuyến với tổng số phương tiện khai thác là 322 xe/15.134 chỗ. Hàng ngày, có 1.280 chuyến xe hoạt động đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu đi lại của nhân dân.
b) Vận tải hàng hóa
Ước tính doanh thu vận tải hàng hóa tháng 12/2023 đạt 1.497,78 tỷ đồng, tăng 3,82% so tháng trước và tăng 8,39% so cùng tháng năm trước; Dự ước quý IV/2023 đạt 4.368,4 tỷ đồng, tăng 10,73%. Tính chung cả năm 2023, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 16.944,5 tỷ đồng, tăng 15,61% so cùng kỳ.
Sản lượng vận chuyển hàng hóa cả năm 2023 ước đạt 75.333 nghìn tấn, tăng 8,78%, luân chuyển ước đạt 6.422.315 nghìn tấn.km,tăng 9,94% so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng vận chuyển hàng hóa đường bộ là 73.505 nghìn tấn, tăng 8,77% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển hàng hóa đường bộ ước đạt 6.111.808 ngàn tấn.km, tăng 9,96% so với cùng kỳ.
c) Hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát
Mặc dù tình hình sản xuất, xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn, nhưng hoạt động lưu chuyển, bốc xếp hàng hoá vẫn được duy trì nên dịch vụ lưu kho, lưu bãi, kê khai Hải quan vẫn ổn định và tăng so với tháng trước do tháng cuối năm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa theo hợp đồng trong năm. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 12/2023 đạt 825,04 tỷ đồng tăng 3% so với tháng trước và tăng 12,37% so với tháng cùng kỳ; Ước quý IV/2023 đạt 2.411 tỷ đồng, tăng 13,38% so cùng kỳ; tính chung cả năm 2023 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 9.331,8 tỷ đồng, tăng 12,26% so cùng kỳ.
Doanh thu dịch vụ bưu chính, chuyển phát tháng quý IV/2023 ước đạt 2.302 tỷ đồng, tăng 2,61% so với quý III/2023.Ước cả năm 2023 doanh thu đạt 8.917 tỷ đồng, tăng 12,26% so cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so cùng kỳ là do hiện nay bên cạnh việc mua sắm trực tiếp thì nhu cầu mua sắm online rất phát triển làm cho nhu cầu sử dụng dịch vụ chuyển phát tăng, hiện có nhiều đơn vị chuyển phát thành lập để đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng online của người dân.
Thuê bao điện thọai phát triển mới quý IV ước đạt 245.593 thuê bao, tăng 1,31% so quý trước. Ước cả năm 2023 thuê bao điện thọai phát triển mới đạt 968.132 thuê bao tăng 2,89% so cùng kỳ, trong đó có:1.224 thuê bao cố định, giảm 15,93% và 966.908 thuê bao di động, tăng 2,92% so cùng kỳ.
Số thuê bao Internet phát triển mới năm 2023 ước đạt 141.785 thuê bao, tăng 7,37% so với cùng kỳ.
6. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển
Năm 2023 tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai vẫn tăng trưởng khá cao, dự tính cả năm 2023 tăng 12,97% so năm 2022. Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai là địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt thu hút đầu tư nước ngoài những năm gần đây tiếp tục đạt kết quả cao. Các loại hình doanh nghiệp chú trọng đầu tư sản xuất kinh doanh để mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó các công trình phục vụ dân sinh được đẩy mạnh đầu tư ở các địa phương trong tỉnh, các công trình trọng điểm về hạ tầng và giao thông có vốn đầu tư lớn tiếp tục được triển khai thực hiện. Điển hình là các dự án lớn, siêu dự án đã và đang thi công trên địa bàn tỉnh như: dự án Cảng hàng không Quốc tế Long Thành; dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch3, Nhơn Trạch 4. Khu vực dân doanh tiếp tục phát triển nhanh. Ở khu vực thành thị và nông thôn tình hình xây dựng mới và sửa chữa nhà ở dân cư tăng cao. Nhiều khu tái định cư đã và đang triển khai thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho người dân đặc biệt là công nhân lao động nhập cư để ổn định và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, chỉ tính riêng khu TĐC Lộc An – Bình Sơn có khoảng 1,6 ngàn hộ được cấp phép thi công và hoàn thiện đưa vào sử dụng. Do đó tình hình tình hình thực hiện vốn đầu tư trong năm 2023 có sự tăng trưởng khá cao so cùng kỳ.
Dự ước tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh quý 4/2023 thực hiện 32.294,8 tỷ đồng, tăng 8,04% so với quý 3/2023 và tăng 11,38% so cùng kỳ. trong đó vốn ngân sách nhà nước đạt 3.299,5 tỷ đồng, tăng 9,22%; Vốn ngoài nhà nước đạt 14.675,2 tỷ đồng, tăng 14,13%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 13.535,9 tỷ đồng, tăng 8,67%; Vốn huy động khác đạt 508,1 tỷ đồng, tăng 2,99%.
Dự ước năm 2023 tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện 114.015,4 tỷ đồng, tăng 12,97% so cùng kỳ, trong đó vốn khu vực nhà nước đạt 10.644,6 tỷ đồng, tăng 19,04%; vốn ngoài nhà nước đạt 52.085 tỷ đồng, tăng 14,02%; vốn đầu tư nước ngoài đạt 48.317,3 tỷ đồng, tăng 10,17%; Vốn huy động khác đạt 1.963,7 tỷ đồng, tăng 7,43%. Nguyên nhân nguồn vốn đầu tư tăng mặc dù trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn nhưng một số doanh nghiệp đầu tư mở rộng nhà xưởng và đầu tư sữa chữa, mua sắm tài sản cố định. Đặc biệt khu vực kinh tế ngoài nhà nước năng động, có tiềm lực phát triển nhanh, nguồn vốn đầu tư thực hiện của khu vực này tăng trưởng trong những năm gần đây, giúp nâng cao năng lực nội sinh của sự phát triển nền kinh tế. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dự ước năm 2023 tăng cao (+10,17%) do thu hút vốn FDI tiếp tục đạt kết quả cao, nhiều dự án khởi công xây dựng; mặt khác các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, tăng qui mô năng lực sản xuất.
7. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Từ đầu năm đến ngày 20/12/2023, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 1.160,26 triệu USD, tăng 1,65% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: cấp mới 72 dự án với tổng vốn đăng ký 416,58 triệu USD (giảm 15,25%) và 88 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 743,68 triệu USD (tăng 14,42% so cùng kỳ).
Tính từ đầu năm đến ngày 20/12/2023, tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư (chưa bao gồm các dự án trúng đấu giá, đầu thầu) và điều chỉnh tăng, giảm vốn khoảng 12.349,23 tỷ đồng, gấp hơn 4,6 lần so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: cấp mới 21 dự án với tổng vốn đăng ký là 6.477,05 tỷ đồng (tăng 5,3 lần); có 15 dự án tăng vốn với số vốn bổ sung là 6.251,57 tỷ đồng (tăng 4,3 lần so cùng kỳ); có 02 dự án giảm vốn với số vốn giảm là 349,39 tỷ đồng.
Từ đầu năm đến ngày 15/12/2023, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là: 64.573 tỷ đồng, giảm 4,48% so cùng kỳ. Trong đó, có 3.949 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 2,88%, với tổng vốn đăng ký khoảng 29.126 tỷ đồng, giảm 5,6% so cùng kỳ;có1.143 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn, tăng 26,86%, với số vốn bổ sung khoảng 35.447 tỷ đồng, giảm 3,53% so cùng kỳ. Ngoài ra có 2.031 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh, bằng 90,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/12/2023, có 539 doanh nghiệp giải thể (tăng 4% so với cùng kỳ) và có 857 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động (tăng 24,2% so với cùng kỳ); 1.654 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh (tăng 37,8% so với cùng kỳ). Lý do giải thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do ảnh hưởng của kinh tế thế giới, tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, hiệu quả kinh tế thấp. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
8. Hoạt động ngân hàng
Trên địa bàn tỉnh có 42 ngân hàng với 60 Chi nhánh ngân hàng, 221 phòng giao dịch trực thuộcvà 22 chi nhánh ngân hàng cấp 2; có 34 Quỹ tín dụng nhân dân; 05 chi nhánh Tổ chức tài chính vi mô TNHH MTV cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP). Hệ thống ngân hàng thực hiện tốt công tác thanh toán, tăng cường công tác thanh toán không dùng tiền mặt; đáp ứng kịp thời và đầy đủ lượng tiền mặt và cơ cấu các loại tiền phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa.Kết quả huy động vốn và hoạt động tín dụng trên địa bàn như sau:
Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn ước đến 31/12/2023 đạt 309.957 tỷ đồng, tăng 7,73% so với đầu năm. Trong đó: Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 2.850 tỷ đồng, tăng 4,32%;Tiền gửi ước đạt 307.107 tỷ đồng, tăng 7,76% so đầu năm (tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 290.152 tỷ đồng, tăng 9,27%; tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 16.955 tỷ đồng, giảm 12,89%).
Hoạt động tín dụng: Dự ước đến 31/12/2023 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 368.076 tỷ đồng, tăng 10,49% so với đầu năm (nợ xấu ước chiếm 1,45% trên tổng dư nợ cho vay). Trong đó: Giá trị các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ước đạt 2.112 tỷ đồng, giảm 5,29%; Tổng dư nợ cho vay ước đạt 365.964 tỷ đồng, tăng 10,6% so đầu năm (dư nợ bằng đồng Việt Nam ước đạt 312.421 tỷ đồng, tăng 8,48%; dư nợ bằng ngoại tệ ước đạt 53.543 tỷ đồng, tăng 24,84%).
Trong năm 2023, NHNN đã điều chỉnh giảm liên tục 04 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5-2,0%/năm trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao. Đồng thời, NHNN đã chỉ đạo và tổ chức họp với các NHTM để yêu cầu các TCTD tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay hỗ trợ phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; triển khai các biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là giảm lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay đang còn dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới (phấn đấu mức giảm tối thiểu 1,5-2%/năm) và phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng kêu gọi các tổ chức hội viên tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Nhờ đó, đến nay mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm; lãi suất tiền gửi và cho vay mới của các NHTM giảm khoảng hơn 2,0%/năm so với cuối năm 2022. Với tác động có độ trễ của chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, các biện pháp của NHNN và các cam kết giảm lãi suất cho vay của TCTD, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.
II. Một số tình hình xã hội
1) Văn hóa, thể thao
- Lĩnh vực văn hóa:
Năm 2023, Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục bám sát chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, chủ động linh hoạt phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong tỉnh để triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ tuyên truyền cổ động trực quan các sự kiện quan trọng trên địa bàn tỉnh. Luôn chú trọng phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát huy giá trị văn hóa và con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đời sống văn hóa cơ sở. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động, phát triển tốt các loại hình Câu lạc bộ về văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí phù hợp tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở để thu hút đông đảo người dân tham gia.
Ngành Văn hoá cũng thường xuyên hướng dẫn các đơn vị, các huyện, thành phố thực hiện công tác bảo vệ, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa gắn kết chặt chẽ với phát triển du lịch của địa phương. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có một số di tích văn hóa lịch sử thu hút du khách như: Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, Văn miếu Trấn Biên, Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi Bửu Long, núi Chứa Chan.
- Thể dục, thể thao:
Công tác xây dựng, phát triển thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn tỉnh phát triển sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện, với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, góp phần nâng cao sức khỏe, cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần đoàn kết của cộng đồng.Bên cạnh việc phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao được lãnh đạo chính quyền Đồng Nai quan tâm đầu tư phát triển, hàng năm được đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng tốt nhu cầu tập luyện của các đội tuyển thể thao tỉnh và tổ chức thi đấu giải tỉnh, giải quốc gia.
Công tác tuyển chọn, đào tạo vận động viên các môn thi đấu được duy trì và phát triển. Năm 2023, tuyển chọn bổ sung 68 vận động viên các lớp năng khiếu theo chỉ tiêu, kế hoạch. Hiện tại thể thao thành tích cao Đồng Nai đang huấn luyện và thi đấu với 32 bộ môn được tập luyện các môn như: Bóng đá, Bóng bàn, Bi sắt, Xe đạp, Cầu mây, Cầu lông, Quần vợt, Vovinam, Cổ truyền, Wushu, Cử tạ, Thể hình, Điền kinh… với hơn 800 vận động viên tập luyện và thường xuyên tham gia thi đấu. Việc xác định đầu tư đúng hướng các môn thể thao trọng điểm đã mang lại kết quả cao tham gia các giải thi đấu thể thao trong nước và quốc tế: tham gia 20 giải quốc tế và 02 kỳ Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games 32 và PARA Games 12), đạt tổng cộng 37 huy chương các loại (13HCV, 18HCB, 06HCĐ); Tham gia 99 giải quốc gia và 11 giải Cụm, khu vực, mở rộng, đạt được 648 huy chương các loại (200HCV, 196HCB, 252HCĐ).
2) Giáo dục - Đào tạo
Năm 2023, ngành Giáo dục – đào tạochú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, gắn đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho trẻ em và học sinh… Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các bậc học.
Tổ chức tốt kỳ thi, trong đó có kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh; kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2023 và tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023, kết quả: Tỷ lệ tốt nghiệp THPT (tính cả thí sinh tự do) đạt 97,10% (tăng 0,26% so với năm 2022) trong đó khối THPT đạt 99,34%, khối GDTX đạt 87,98%.
Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, triển khai tốt chương trình giáo dục phổ thông. Xây dựng xã hội học tập, giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông; đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân... Thực hiện Kế hoạch năm học 2022-2023 bảo đảm tổ chức dạy và học an toàn, chất lượng; chủ động linh hoạt.Nhằm chuẩn bị tốt cho năm học 2023-2024, tỉnh đã ban hành Quyết định về khung kế hoạch thời gian đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo về việc cung ứng sách giáo khoa phục vụ năm học 2023-2024 và những năm tiếp theo và chú trọng đầu tư mới, sửa chữa nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học.
Xã hội hóa giáo dục trên địa bàn tỉnh đã hình thành các cơ sở giáo dục ngoài công lập thực hiện đào tạo theo mô hình trường quốc tế, cấp bằng tú tài quốc tế; mô hình trường chất lượng cao tăng cường ngoại ngữ, tin học, kỹ năng mềm, học 2 buổi/ngày ở tất cả các khối lớp. Đến cuối năm học 2022-2023, mạng lưới trường ngoài công lập các cấp trên địa bàn tỉnh là 192 trường, tỷ lệ 20,89% trên tổng số trường, trong đó: Mầm non có 155/374 trường, chiếm tỷ lệ 41,44%; Tiểu học có 6/287 trường, tỷ lệ 2,09%, Trung học cơ sở có 4/181 trường, tỷ lệ 2,2% và trung học phổ thông có 27/77 trường, tỷ lệ 35,1%.Bên cạnh đó, mô hình công ty, xí nghiệp thực hiện xây dựng, đưa vào hoạt động trường mầm non để phục vụ con em công nhân của công ty đã bước đầu được thực hiện có hiệu quả. Mạng lưới trường, lớp và quy mô giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh phát triển nhanh, góp phần nâng cao tỷ lệ huy động trẻ ra lớp, đáp ứng nhu cầu gửi trẻ ngày càng cao của con em nhân dân trên địa bàn. Đến thời điểm hiện nay, toàn tỉnh có 165/219 trường mầm non trong hệ thống trường mầm non công lập đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 75,34%.
3) Y tế
- Tình hình dịch bệnh:
Trong năm 2023, tình hình dịch COVID-19 đã được kiểm soát tốt trên địa bàn tỉnh. UBND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị trong ngành tăng cường thực hiện các giải pháp, kịp thời phát hiện những diễn biến bất thường của dịch bệnh để áp dụng các biện pháp xử lý hiệu quả, quyết tâm khống chế không để dịch lây lan và bùng phát. Tổng số ca mắc mới từ đầu năm đến 19/12/2023 ghi nhận 2.560 ca, có 02 ca tử vong.Tỉnh tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho các đối tượng theo quy định.Tính đến nay, toàn tỉnh đã thực hiện tiêm 8.286.262 liều vắc xin phòng COVID-19 cho người dân.
Bên cạnh đó công tác phòng chống dịch bệnh khác như: Sốt xuất huyết; Sởi, Tay chân miệng; Sốt rét… được Ngành y tế tập tung triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh như cấp hóa chất xử lý ổ dịch Sốt xuất huyết cho các huyện, tăng cường thực hiện giám sát côn trùng định kỳ. Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, vật tư y tế, hóa chất, trang thiết bị, thuốc men và chủ động giám sát thường xuyên và xử lý kịp thời tình hình dịch Sốt xuất huyết, Sởi, Tay chân miệng... trên địa bàn tỉnh.
Kết quả, năm 2023 ghi nhận tình hình mắc:Sốt xuất huyết ghi nhận 4.791 ca mắc, giảm 79,83% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó có 05 ca tử vong, giảm 73,68% so với cùng kỳ. Sởi ghi nhận 03 ca, giảm 40%, không ghi nhận ca tử vong. Tay chân miệng ghi nhận 10.610 ca, tăng 52,77%, không ghi nhận ca tử vong. Sốt rét ghi nhận mắc 02 ca, bằng so với cùng kỳ. Dịch Đậu mùa khỉ ghi nhận 01 ca tại Biên Hòa. Uốn ván ghi nhận 08 ca, tăng 07 ca so cùng kỳ 2022. Các dịch bệnh khác như Cúm H5N1, H7N9, Bệnh do liên cầu lợn ở người, Ho gà...không ghi nhận trường hợp mắc.
- Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm:
Đẩy mạnh thực hiện công tác truyền thông về an toàn vệ sinh thực phẩm cho các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm, tập trung vào công tác tuyên truyền, kiểm tra đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm bếp ăn tập thể và thức ăn đường phố nhất là dịp Tết Nguyên đán, các lễ hội trong năm 2023. Tăng cường công tác thanh kiểm tra liên ngành, xử lý nghiêm những cơ sở vi phạm các điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh. Qua đó, tính đến ngày 31/10/2023 đã thực hiện 12.538 lượt kiểm tra cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm, trong đó: 11.680 cơ sở đạt (chiếm 93,16%), số cơ sở vi phạm là 1.070, nhắc nhở 966 cơ sở, ban hành 104 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.113 triệu đồng; ghi nhận 01 ca ngộ độc thực phẩm methanol với 01 người mắc và tử vong.
4) Tình hình đời sống dân cư, lao động
Tình hình kinh tế của Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung chịu ảnh hưởng tác động nặng nề của tình hình kinh tế thế giới và khu vực, những xung đột về chính trị giữa Ukraine và Nga chưa có dấu hiệu cải thiện; các nền kinh tế lớn đang có dấu hiệu suy giảm tăng trưởng, lạm phát duy trì mức cao trên toàn cầu; chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài kèm theo mất giá trị đồng tiền, giảm mạnh nhu cầu tiêu dùng, thị trường bất động sản bị ảnh hưởng nặng nề, thất nghiệp gia tăng dẫn đến nguy cơ bất ổn xã hội.Đời sống dân cư gặp nhiều khó khăn do thu nhập giảm, người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu, tiết kiệm để tiêu dùng các sản phẩm thiết yếu hơn là nhu cầu đối với các sản phẩm xa xỉ, giảm nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị, giảm các hoạt động vui chơi, giải trí, du lịch.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn, thiếu đơn hàng, các doanh nghiệp buộc phải cho người lao động nghỉ luân phiên, giãn việc, thậm chí cho thôi việc, một số doanh nghiệp phải tạm ngưng hoạt động hoặc giải thể. Dẫn tới tình trạng người lao động mất việc làm, giảm thu nhập. Trong quý IV/2023 số lao động nghỉ giãn việc là 29.656 người; mất việc, thôi việc có 265 người. Lũy kế cả năm 2023, có 80.810 người nghỉ giãn việc và 39.611 người bị mất việc, thôi việc.
Tỉnh tiếp tục thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi qua Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, chương trình hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Triển khai thực hiện hỗ trợ người lao động bị mất việc, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động trong dịp Tết Nguyên đán năm 2023 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tính đến ngày 31/8/2023, UBND các huyện, thành phố đã ban hành quyết định phê duyệt hồ sơ của 9.764 lao động, trong đó: 466 lao động hưởng chính sách hỗ trợ bị chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp; 9.300 lao động hưởng chính sách hỗ trợ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với tổng số tiền hỗ trợ hơn 14.646 tỷ đồng đã được giải ngân 100%. Đồng thời hỗ trợ khó khăn cho người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động không đủ điềukiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, bị tạm hoãn hợp đồng và bị giảm giờ làm trong dịpTết Nguyên đán 2024.
Tính đến thời điểm 09/11/2023, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Đồng Nai đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp của 59.467 lao động (tăng 2,33% so với cùng kỳ), trong đó ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 57.845 người (giảm 1,88% so với cùng kỳ) với số tiền hưởng là 1.798,16 tỷ đồng (tăng 3,49%), tư vấn giới thiệu việc làm cho 60.073 lao động thất nghiệp (tăng 0,76%), số người có quyết định hỗ trợ học nghề là 1.039 người (giảm 3,62% so với cùng kỳ).
Dự ước thực hiện năm 2023, phối hợp các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm giải quyết việc làm cho 80.292 lượt người (đạt 100,37% kế hoạch năm, giảm 0,95% so với cùng kỳ năm 2022).
Toàn tỉnh có 57 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó: Có 9 trường Cao đẳng; 05 trường Trung cấp; 21 trung tâm Giáo dục nghề nghiệp; 22 cơ sở giáo dục nghề nghiệp khác và doanh nghiệp tại địa phương. Tính đến ngày 15/11/2023, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 72.738 học viên, đạt 101,03% kế hoạch năm, giảm 5,79% so với cùng kỳ. Số học viên tại các trường và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp và có chứng chỉ 66.285 học viên, đạt 101,02% so với kế hoạch năm, tăng 1,18% so với cùng kỳ.
Trên đây là các nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 năm 2023 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Cục Thống kê xin được thông báo."
CỤC THỐNG KÊ ĐỒNG NAI
Tác giả: theo "thongke.dongnai.gov.vn"
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập